Trang Web chuyên đề về Nông nghiệp thế giới của Kỹ sư Hồ Đình Hải
1-TỔ CHỨC LƯƠNG THỰC & NÔNG NGHIỆP THẾ GIỚI (FAO)
Trụ sở chính của FAO ở Rome, Ytay
1-A- TÌM HIỂU TỔ CHỨC FAO (Food and Agriculture Organisation-FAO) Trang web chính thức: www.fao.org 1. Nguồn gốc: FAO được thành lập ngày 16/10/1945 tại Hội nghị Quebec (Ca-na-đa). Kể từ năm 1981, thế giới đã chọn ngày 16/10 làm Ngày Lương thực Thế giới. FAO là tổ chức chuyên môn của tổ chức Liên hợp quốc. Trụ sở của FAO đặt tại Rôm, Ý. 2. Ngân sách và Thành viên: FAO là tổ chức liên chính phủ. Hiện nay FAO có 183 nước thành viên. Ngân sách hoạt động của FAO lấy từ hai nguồn: một là nguồn ngân sách thường xuyên (regular budget) do các nước thành viên của FAO đóng góp, hai là nguồn từ Chương trình hỗ trợ tài chính được cấp chủ yếu từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Uỷ thác (Trust Fund) của các ngân hàng hoặc của một số nước tài trợ. Hiện nay FAO đang phải đối mặt với tình hình tài chính ngày càng hạn hẹp do các nước phát triển giảm mức đóng góp. Năm 1993, nguồn ngân sách thường xuyên của FAO đạt 673,1 triệu USD, đến năm 2003, con số đó chỉ đạt khoảng 650 triệu USD. Do vậy, FAO đã phải kêu gọi các nước thành viên tăng mức đóng góp nhằm nâng ngân sách thường xuyên lên 2,2% - mức để FAO không phải cắt giảm các chương trình hoạt động đã cam kết tại các nước. Mức ngân sách 2006 - 2007 của FAO đã tăng lên 765 triệu USD. 3. Sứ mệnh và hoạt động: FAO hoạt động như là một trung tâm thu thập và phân tích các thông tin, tư vấn về kiến thức, kinh nghiệm để phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, lương thực và dinh dưỡng trên phạm vi toàn cầu (knowledge-based organization). FAO cũng là một diễn đàn quốc tế quan trọng về lương thực và nông nghiệp, đồng thời là nguồn tư vấn về chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đối với các nước thành viên, FAO khuyến khích và tìm nguồn tài chính hỗ trợ chương trình hợp tác kỹ thuật giữa các nước thành viên mà tiêu biểu là hợp tác NAM-NAM. 4. Cơ cấu tổ chức: Đứng đầu FAO là Tổng giám đốc (TGĐ) - hiện nay TGĐ là Ông José Graziano da Silva người Brazil. Về cơ cấu, Bộ máy hoạt động của FAO gồm: Đại Hội đồng, Hội đồng và các Uỷ ban chuyên trách. Đại Hội đồng là Cơ quan quyền lực cao nhất, đại biểu là các quốc gia thành viên họp hai năm/một lần để thông qua các chương trình và ngân sách cho các hoạt động của Tổ chức. Hội đồng gồm 49 nước thành viên do Đại Hội đồng bầu (nhiệm kỳ 3 năm). Hội đồng là Cơ quan lãnh đạo của FAO và có nhiệm kỳ 3 năm. Các Uỷ ban chuyên trách (Uỷ ban Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ sản vv…) có trách nhiệm giúp Hội đồng và Đại Hội đồng các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình. Để thực hiện các mục tiêu của Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về lương thực, FAO đã tiến hành một số cải tổ về cơ cấu tổ chức như thu gọn và sát nhập các vụ ở trụ sở, tăng cường quyền lực và phân cấp cho các văn phòng khu vực và văn phòng quốc gia, lập văn phòng tiểu khu vực, tăng cường các dự án trên thực địa. Với chủ trương “Kỹ thuật của FAO, kinh nghiệm thực tiễn ở khu vực và các nước”, nhìn chung, các hoạt động của FAO đã có hiệu quả hơn. 5. Một số nét về các hoạt động của FAO: FAO hoạt động nhằm mục đích hỗ trợ các quốc gia thành viên nâng cao mức dinh dưỡng và mức sống của người dân, thông qua việc tăng cường sản xuất, chế biến, cải tiến thị trường và phân phối tất cả sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm; khuyến khích phát triển nông thôn và nâng cao điều kiện sống của người nông dân nông thôn, qua đó thực hiện thắng lợi mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. I-B. HÌNH THỨC TRỢ GIÚP VÀ HỢP TÁC CỦA FAO 1. Hợp tác thông qua các dự án UNDP: Trong khuôn khổ các dự án UNDP, ngoài UNDP và nước nhận viện trợ, FAO tham gia như một thành viên thứ 3. Trong môi squan hệ này, FAO vừa là cơ quan điều hành dự án, vừa là cơ quan hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp chuyên gia cho dự án. 2. Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác kỹ thuật (TCP): Đây là sự hỗ trợ của FAO dưới hình thức dự án trợ giúp các nước thành viên. Mỗi dự án trị giá khoảng từ 250.000 USD đến 500.000 USD, trích từ nguồn ngân sách thường xuyên của FAO. Chương trình hợp tác kỹ thuật TCP cung cấp vốn và kỹ thuật dưới các hình thức như chuyên gia, dịch vụ tư vấn và cung cấp trang thiết bị quan trọng cho dự án. Khoảng 60% dự án TCP hỗ trợ trực tiếp cho các nước nhận viện trợ và 40% cho các chương trình quốc tế khác. Đặc trưng của dự án TCP là không cần tổ chức các đoàn đánh giá khi dự án kết thúc. Trung bình thời gian thực hiện dự án là một năm, tuy nhiên, ngoại lệ có dự án kéo dài nhưng không được quá hai năm. 3. Hợp tác thông qua Quỹ Uỷ thác (TF) của FAO: Đây là nguồn viện trợ nước ngoài của các chính phủ, các ngân hàng và các tổ chức trên thế giới thông qua FAO thực hiện và quản lý. 4. Hợp tác thông qua Sáng kiến Chương trình Lương thực truyền thông (TeleFood). Sáng kiến này được FAO đưa ra năm 1997. Hàng năm được phát động nhằm mục đích huy động thêm nguồn tài chính cho các dự án chống đói nghèo; thông qua các hoạt động truyền thông giúp nâng cao nhận thức của người dân về nạn đói nghèo trên thế giới. Nguồn vốn cho mỗi dự án thuộc loại này rất hạn chế, chỉ khoảng 10.000 USD/dự án. 5. Hợp tác thông qua Chương trình đặc biệt về An ninh lương thực (SPFS-Special Programme for Food Security). Chương trình này do FAO phát động năm 1994 và được Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Lương thực lần thứ nhất (11/1996) tại Rôm thông qua. Chương trình SPFS hiện đang được triển khai ở 69 quốc gia nhằm nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân nhỏ và các hộ nghèo thành thị, giúp họ hiểu được những trở ngại cũng như những cơ hội trong việc giải quyết vấn đề an ninh lương thực bền vững. Giai đoạn 1 của SPFS tập trung vào 4 ưu tiên : (1) quản lý đất đai và nước, (2) nâng cao năng suất trên cơ sở bền vững, (3) đa dạng hoá cây trồng và (4) cộng đồng tham gia vào tìm hiểu những trở ngại đối với kinh tế-xã hội. Giai đoạn 2 tập trung vào điều chỉnh các chính sách đầu tư và phát triển nông nghiệp. 6. Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác giữa các nước đang phát triển gọi tắt là hợp tác Nam-Nam: Mục đích của Chương trình là nhằm khuyến khích sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước đang phát triển, cho phép nước nhận dự án được nhận các kinh nghiệm của các nước đang phát triển khác thông qua việc sử dụng chuyên gia của chính các nước đang phát triển thực hiện dự án. Nội dung chủ yếu của Chương trình hợp tác Nam-Nam là nước đang phát triển này cung cấp kinh nghiệm, chuyên gia trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp vv .. cho các nước đang phát triển khác. Chương trình được đánh giá cao vì chi phí cho chuyên gia thấp, dễ chia sẻ kinh nghiệm vì các nước đang phát triển có nhiều điều kiện và trình độ phát triển tương tự.
2-NHÓM TƯ VẤN VỀ NÔNG NGHIỆP QUỐC TẾ- CGIAR
2-1-Giới thiệu
Logo của CGIAR
NHÓM TƯ VẤN VỀ NÔNG NGHIỆP QUỐC TẾ-CGIAR (The Consultative Group on International Agricultural Research-CGIAR ) CGIAR (Nhóm tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp quốc tế) là một liên minh chiến lược liên kết các tổ chức tham gia vào nghiên cứu nông nghiệp phát triển bền vững với các nhà tài trợ mà các quỹ này làm việc. Các nhà tài trợ bao gồm các chính phủ của các nước đang phát triển và công nghiệp hóa, các tổ chức và quốc tế và tổ chức khu vực. Công việc hỗ trợ được thực hiện bởi 15 thành viên của Hiệp hội Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế CGIAR, trong sự hợp tác chặt chẽ với hàng trăm các tổ chức đối tác, bao gồm các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc gia và khu vực, các tổ chức xã hội dân sự, giới học viện và khu vực tư nhân . CGIAR tại có 64 thành viên chính phủ và phi chính phủ và hỗ trợ 14 trung tâm nghiên cứu và một trung tâm nghiên cứu liên chính phủ (AfricaRice). CGIAR được tài trợ bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế (IFAD), Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) và Ngân hàng Thế giới. Tầm nhìn của CGIAR là: Giảm đói giảm nghèo, cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng của con người, và tăng cường khả năng phục hồi hệ sinh thái thông qua quan hệ đối tác nông nghiệp quốc tế chất lượng cao, nghiên cứu và lãnh đạo. Mục tiêu chiến lược Tầm nhìn của CGIAR được hỗ trợ bởi bốn mục tiêu chiến lược: -Giảm nghèo nông thôn -Cải thiện an ninh lương thực -Cải thiện dinh dưỡng và sức khỏe -Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên Giới thiệu tóm tắt lịch sử Những năm đầu tiên CGIAR phát sinh để đáp ứng mối quan tâm rộng rãi trong giữa thế kỷ 20 rằng sự gia tăng nhanh chóng trong quần thể người sẽ sớm dẫn đến nạn đói lan rộng. Bắt đầu từ năm 1943, Quỹ Rockefeller và chính phủ Mexico đã đặt những hạt giống cho cuộc cách mạng xanh khi họ thành lập Văn phòng nghiên cứu đặc biệt, mà đã trở thành Trung tâm cải tiến lúa mỳ và ngô quốc tế (CIMMYT) vào năm 1963. CIMMYT và Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế, được thành lập vào năm 1960 với sự hỗ trợ của Quỹ Rockefeller và Ford Foundation, phát triển giống cho năng suất cao, kháng bệnh tăng lên đáng kể sản xuất của các loại ngũ cốc chủ yếu, và biến Ấn Độ, ví dụ, từ một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nạn đói trong những năm 1960 một nước xuất khẩu ngũ cốc ròng vào cuối những năm 1970. Nhưng rõ ràng rằng những nền tảng một mình không thể tài trợ cho tất cả các nghiên cứu nông nghiệp và những nỗ lực phát triển cần thiết để nuôi sống dân số thế giới. Năm 1969, Ủy ban Phát triển Quốc tế Pearson kêu gọi cộng đồng quốc tế để thực hiện các nỗ lực quốc tế chuyên sâu để hỗ trợ "nghiên cứu chuyên cung cấp thực phẩm và nông nghiệp nhiệt đới". Năm 1970, Quỹ Rockefeller đề xuất một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp trên toàn thế giới theo một ban thư ký thường trực. Điều này đã được tiếp tục hỗ trợ và phát triển bởi Ngân hàng Thế giới, FAO và UNDP, và CGIAR được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1971, phối hợp các nỗ lực nghiên cứu nông nghiệp quốc tế nhằm xóa đói giảm nghèo và đạt được an ninh lương thực ở các nước đang phát triển. CGIAR ban đầu hỗ trợ bốn trung tâm: CIMMYT, IRRI, Trung tâm Nông nghiệp Nhiệt đới Quốc tế (CIAT) và Viện theInternational nông nghiệp nhiệt đới (IITA). Trọng tâm ban đầu về các loại ngũ cốc chủ yếu, gạo, lúa mì và ngô, mở rộng trong những năm 1970 bao gồm sắn, đậu xanh, lúa miến, khoai tây, kê và các cây lương thực khác, và bao gồm chăn nuôi, hệ thống canh tác, bảo tồn các nguồn tài nguyên di truyền, dinh dưỡng thực vật, quản lý nước, nghiên cứu chính sách, và các dịch vụ cho các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc gia ở các nước đang phát triển. Đến năm 1983 đã có 13 trung tâm nghiên cứu trên khắp thế giới dưới chiếc ô của nó.
2-2-CGIAR mở rộng và củng cố
Đến năm 1990, số lượng các trung tâm CGIAR hỗ trợ đã phát triển đến 18. Sáp nhập giữa hai trung tâm chăn nuôi (Phòng thí nghiệm Quốc tế nghiên cứu về các bệnh động vật (ILRAD) và Trung tâm chăn nuôi quốc tế cho Châu Phi (ILCA) và sự hấp thụ của công việc trên chuối và chuối vào chương trình của Viện Tài nguyên di truyền thực vật quốc tế (IPGRI; nowBioversity quốc tế) giảm số lượng đến 16. Sau, một trung tâm (ISNAR) được hấp thụ làm giảm tổng số các trung tâm hỗ trợ đến 15. Giảm từ 18 trung tâm hỗ trợ đến 15 là rất cần thiết di chuyển, nhưng nó không đủ để giải quyết các vấn đề quan trọng đối diện với nhóm. Những vấn đề này, phần lớn là đóng góp của việc mở rộng mô tả trước đây, bao gồm 1. CGIAR các nhà tài trợ đã bị choáng ngợp bởi nhu cầu đối phó với 15 trung tâm hỗ trợ. Những nhu cầu này bao gồm các hoạt động như đánh giá một ưu tiên của trung tâm, chỉ đạo của nó, chương trình, năng lực để cung cấp, đánh giá và báo cáo. 2. Liên quan đến việc trên, một số nhà tài trợ cần một công cụ mà qua đó họ có thể gửi tiền đóng góp tài chính của họ và để cho Tập đoàn quyết định làm thế nào để phân bổ và theo dõi chúng. 3. Việc mở rộng các trung tâm vượt quá năng lực của Tập đoàn để hỗ trợ họ tất cả đầy đủ. Nó cũng dẫn đến ba lớp học của trung tâm, phức tạp quyết định đầu tư. Ba lớp học của trung tâm có thể được tóm tắt như sau: a. Tác động phân phối cao - về cơ bản bốn trung tâm b. Vừa Tác động phân phối - động vật và trung tâm nghiên cứu đất khô c. Cung cấp tác động thấp chính sách các trung tâm về thực phẩm và các nguồn tài nguyên thiên nhiên 4. Thế giới đã thay đổi. Ví dụ, không chỉ các nước G8 không còn nói chuyện cho các nhà tài trợ, nhiều nước tiếp nhận viện trợ như Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia bây giờ đã có cơ quan phát triển của riêng mình. Các nước tiếp nhận viện trợ vẫn còn nhiều cựu đã phát triển một lớp học mạnh mẽ của các nhà khoa học nông nghiệp. Để thêm vào loạt các tin tốt, các nhà tài trợ tư nhân và các ngành công nghiệp cũng đã nhập cảnh một cách lớn và các viện nghiên cứu ở các nước giàu đã được chú ý nhiều hơn đến các vấn đề của người nghèo. Tuy nhiên, các CGAIR đã không nắm lấy những thay đổi trong bất kỳ cách nào có hiệu quả. Nó tiếp tục làm việc như nó đã làm trong quá khứ, chỉ có ít hiệu quả.