CGIAR là từ viết tắt của " The Consultative Group on International Agricultural Research" (có nghĩa là "Nhóm tư vấn nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế").
Bài đăng của Kỹ sư Hồ Đình Hải
1-Giới thiệu về Tổ chức CGIAR
CGIAR System.
1-1-Thông tin chung
Tên CGIAR là từ viết tắt của “The Consultative Group on International Agricultural Research” (có nghĩa là ‘Nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế’). Đến năm 2008 CGIAR đã trải qua nhiều biến đổi lớn. Tuy nhiên từ CGIAR vẩn được giữ lại nguyên gốc của nó để phản ánh cội nguồn của nó. CGIAR là một Tổ chức có quan hệ đối tác toàn cầu nhằm thống nhất các Tổ chức thành viên tham gia vào nghiên cứu cho một tương lai an toàn thực phẩm toàn cầu. -Hình thành: năm 1971. -Loại hình: Đối tác của các nhà tài trợ và các Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế. -Mục đích/Tiêu điểm: Để giảm đói nghèo, cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng con người, nâng cao khả năng phục hồi hệ sinh thái thông qua các nghiên cứu nông nghiệp quốc tế chất lượng cao, với sự hợp tác và lãnh đạo thống nhất. -Trụ sở chính: Tại Montpellier, Pháp (CGIAR Consortium of International Agricultural Research Centers). -Nhân vật then chốt: Inger Andersen, Chủ tịch Hội đồng Quỹ CGIAR; Carlos Pérez del Castillo, Chủ tịch Hội đồng quản trị của CGIAR Consortium of International Agricultural Research Centers; Jonathan Wadsworth, Trưởng Văn phòng Quỹ CGIAR; Frank Rijsberman, Giám đốc điều hành của CGIAR Consortium of International Agricultural Research Centers; -Tổ chức chính: CGIAR Fund, CGIAR Consortium of International Agricultural Research Centers, Independent Science and Partnership Council. -Website: CGIAR, CGIAR Fund, CGIAR Consortium of International Agricultural Research Centers. -Tên cũ: Consultative Group on International Agricultural Research (Nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế). CGIAR (trước đây là Nhóm tư vấn nghiên cứu nông nghiệp quốc tế) là một liên minh chiến lược nhằm thống nhất các tổ chức tham gia vào nghiên cứu nông nghiệp phát triển bền vững với các nhà tài trợ kinh phí để thực hiện nghiên cứu. Các nhà tài trợ bao gồm Chính phủ các nước phát triển và công nghiệp, các quỹ và các tổ chức quốc tế và khu vực. Công việc nghiên cứu được thực hiện bởi 15 thành viên của CGIAR phối hợp chặt chẽ với hàng trăm tổ chức đối tác, bao gồm các Tổ chức, cá nhân, Các viện nghiên cứu nông nghiệp quốc gia và khu vực, các tổ chức xã hội dân sự, giới học thuật và CGIAR hiện có 64 thành viên chính phủ và phi chính phủ và hỗ trợ cho 14 Trung tâm nghiên cứu và một Trung tâm nghiên cứu liên chính phủ (AfricaRice). CGIAR được tài trợ bởi Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc (Food and Agriculture Organization -FAO), Quỹ Quốc tế về phát triển nông nghiệp (the International Fund for Agricultural Development-IFAD), Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (the United Nations Development Programme-UNDP) và Ngân hàng Thế giới (the World Bank).
1-2-Tầm nhìn của CGIAR
-Giảm đói nghèo, cải thiện sức khỏe và dinh dưỡng con người, nâng cao khả năng phục hồi hệ sinh thái thông qua nghiên cứu nông nghiệp, hợp tác và lãnh đạo quốc tế chất lượng cao. -Các chương trình của CGIAR (CGIAR Research Programs) được thực hiện bởi 15 Trung tâm (Centers) thành viên, phối hợp chặt chẽ với hàng trăm tổ chức đối tác, bao gồm cả khu vực tư nhân trong nước và các viện nghiên cứu, các tổ chức xã hội dân sự, giới học thuật… -15 Trung tâm Nghiên cứu và phổ biến kiến thức, công nghệ, chính sách phát triển nông nghiệp thông qua các chương trình nghiên cứu của CGIAR (CGIAR Consortium). Quỹ CGIAR (CGIAR Fund) cung cấp tài trợ đáng tin cậy và dự đoán trong nhiều năm để cho phép lập kế hoạch nghiên cứu trong thời gian dài, phân bổ nguồn lực dựa trên các ưu tiên được chọn, và giải ngân kịp thời nguồn dự tính của các quỹ. Nhiều nhà tài trợ quỹ tín thác tài chính nghiên cứu được thực hiện bởi các Trung tâm thông qua các chương trình nghiên cứu CGIAR. CGIAR có hơn 8.000 nhà khoa học và nhân viên, cơ sở hạ tầng nghiên cứu chưa từng có và mạng lưới năng động trên toàn cầu. Bộ sưu tập của các nguồn tài nguyên di truyền là toàn diện nhất trên thế giới.
Logo của CGIAR
Các Trung tâm của CGIAR
2-Giới thiệu lịch sử tóm tắt của CGIAR
2-1-Những năm đầu CGIAR phát sinh để đáp ứng mối quan tâm rộng rãi giữa thế kỷ 20 trước tình trạng dân số thế giới phát triển nhanh chóng và nguy cơ của nạn đói lan rộng. Từ năm 1943, Quỹ Rockefeller (Rockefeller Foundation) và chính phủ Mexico đã đặt hạt giống cho cuộc cách mạng xanh (the Green Revolution) khi họ thành lập Văn phòng Nghiên cứu đặc biệt, mà đã trở thành Trung tâm cải tiến lúa mỳ và ngô quốc tế (the International Maize and Wheat Improvement Center -CIMMYT) trong năm 1963. CIMMYT và Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (the International Rice Research Institute-IRRI), được thành lập vào năm 1960 với sự hỗ trợ của Quỹ Rockefeller và Ford Foundation, phát triển giống có năng suất cao, khả năng kháng bệnh mà tăng lên đáng kể năng suất các loại ngũ cốc chủ yếu, và biến Ấn Độ, ví dụ, từ một quốc gia thường xuyên phải đối mặt với nạn đói trong những năm 1960 để một nước xuất khẩu ngũ cốc của cuối những năm 1970. Nhưng rõ ràng là các cơ sở này một mình không thể tài trợ cho tất cả các nghiên cứu nông nghiệp và nỗ lực phát triển cần thiết để nuôi dân số thế giới. Năm 1969, Ủy ban Pearson Phát triển Quốc tế (the Pearson Commission on International Development) kêu gọi cộng đồng quốc tế để thực hiện "nỗ lực quốc tế chuyên sâu" để hỗ trợ "nghiên cứu chuyên cung cấp thực phẩm và nông nghiệp nhiệt đới". Trong năm 1970, Quỹ Rockefeller đã đề xuất một mạng lưới toàn cầu của các trung tâm nghiên cứu nông nghiệp dưới một thư ký thường trực. Điều này đã được hỗ trợ hơn nữa và phát triển bởi Ngân hàng Thế giới, FAO, UNDP, và CGIAR được thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1971, phối hợp các nỗ lực nghiên cứu nông nghiệp quốc tế nhằm xóa đói giảm nghèo và đạt được an ninh lương thực (food security) ở các nước đang phát triển. CGIAR ban đầu được hỗ trợ bốn Trung tâm: 1-Trung tâm cải tiến ngô và lúa mỳ quốc tế (CIMMYT). (The International Maize and Wheat Improvement Center ). 2-Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc tế (IRRI). (The International Rice Research Institute). 3 -Trung tâm Quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (CIAT). (The International Center for Tropical Agriculture). 4 -Viện Quốc tế về nông nghiệp nhiệt đới (IITA). (The International Institute of Tropical Agriculture). Trọng tâm ban đầu về ngũ cốc chủ yếu như gạo, lúa mì và ngô, mở rộng trong những năm 1970 bao gồm sắn, đậu xanh, lúa miến, khoai tây, kê và cây lương thực khác, và bao gồm chăn nuôi, hệ thống canh tác, bảo tồn tài nguyên di truyền, dinh dưỡng cây trồng, quản lý nước, nghiên cứu chính sách, và các dịch vụ cho các Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc gia ở các nước đang phát triển. Đến năm 1983 đã có 13 trung tâm nghiên cứu trên thế giới dưới sự bảo trợ của CGIAR.
2-2-Mở rộng và củng cố CGIAR
Đến năm 1990 số lượng các Trung tâm được hỗ trợ của CGIAR đã tăng lên đến 18. Sáp nhập giữa hai trung tâm chăn nuôi (Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Quốc tế về các bệnh động vật (The International Laboratory for Research on Animal Diseases -ILRAD) và Trung tâm chăn nuôi quốc tế cho Châu Phi (The International Livestock Centre for Africa -ILCA) và sự xác nhập của Trung tâm nghiên cứu cây chuối vào chương trình của Viện Tài nguyên di truyền giống cây trồng quốc tế (The International Plant Genetic Resources Institute -IPGRI) để trở thành Trung tâm Đa dạng sinh học Quốc tế (Bioversity International) giảm còn 16 trung tâm. Sau đó một trung tâm khác (ISNAR) được xác nhập và hiện nay CGIAR còn 15 Trung tâm. Giảm từ 18 trung tâm còn 15 là một bước đi cần thiết, nhưng CGIAR phải đối mặt với những thử thách mới, đó là: 1. Các nhà tài trợ của CGIAR đã bị choáng ngợp bởi những đòi hỏi của 15 Trung tâm cần cần kinh phí hổ trợ ngày càng mở rộng. 2. Liên quan đến việc trên, một số nhà tài trợ cần thiết có thể gửi tiền đóng góp tài chính của họ cho CGIAR và không thể quyết định làm phân bổ và theo dõi chúng. 3. Việc mở rộng các trung tâm vượt quá năng lực của Tập đoàn để hỗ trợ tất đầy đủ cho tất cả. Từ đó CGIAR đã rút ra 3 bài học kinh nghiệm là: a-Giao kinh phí chủ động cho 4 Trung tâm ban đầu. b. Giao kinh phí trung bình cho các Trung tâm nghiên cứu đất khô và động vật c. Giao kinh phí thấp cho các Trung tâm nghiên cứu về thực phẩm và tài nguyên thiên nhiên 4. Thế giới đã thay đổi, không chỉ các nước G8 giảm mức tài trợ, nhiều quốc gia nhận viện trợ như Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia bây giờ đã có cơ quan phát triển riêng của họ. Vẫn còn nhiều nước nhận viện trợ từ CGIAR để phát triển khoa học nông nghiệp. Có thêm nhiều tin tốt: các nhà tài trợ tư nhân và các ngành công nghiệp ở các nước giàu cũng đã tham gia tài trợ nghiên cứu phát triển nông nghiệp. Do đó quỷ của CGIAR vẩn được mở rộng và các chương trình nghiên cứu đi vào chiều sâu. 2-3-Cải cách trong CGIAR Để tăng hiệu quả và dựa vào nền tảng thành công trước đây, CGIAR bắt tay vào một chương trình cải cách trong năm 2001. Những thay đổi quan trọng được thực hiện là việc thông qua Chương trình Thách thức (Challenge Programs) như một phương tiện để khai thác thế mạnh của các Trung tâm đa dạng để giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực lớn. Ba chương trình Thách thức đã được thành lập tại các Trung tâm nghiên cứu được hỗ trợ và chương trình thứ tư đề ra ở Châu Phi (FARA, a research forum in Africa): -Nước và lương thực, nhằm mục đích sản xuất lương thực sử dụng nước ít hơn; -HarvestPlus, cải tiến nội dung vi chất dinh dưỡng của thực phẩm chính, và -Tăng cường sử dụng các nguồn tài nguyên di truyền cây trồng để tạo ra một thế hệ cây trồng mới đáp ứng nhu cầu của nông dân và người tiêu dùng. 2-4-CGIAR đổi mới Kể từ khi CGIAR được thành lập đã có những thay đổi lớn trong nghiên cứu nông nghiệp "cảnh quan" ('landscape'). Ví dụ, nghiên cứu nước đã phát triển và củng cố, thay đổi vai trò của các Trung tâm của CGIAR. Biến động giá lương thực và năng lượng và thị trường tài chính có thêm sự không bền vững đối với môi trường trong đó liên quan đến nông dân và người tiêu dùng. Biến đổi khí hậu sẽ có một loạt các tác động về nông nghiệp, với những thay đổi trong điều kiện phát triển cho cây trồng, vật nuôi, cá và các loài gây hại và các bệnh ảnh hưởng đến chúng. Hạn hán và bão dự kiến sẽ tăng về tần suất và mức độ nghiêm trọng, phá hoại những nỗ lực của nông, lâm và ngư dân. Điều này sẽ có ảnh hưởng lớn đến an ninh lương thực. Trong năm 2008, CGIAR bắt tay vào một quá trình thay đổi để cải thiện sự tham gia giữa tất cả các bên liên quan trong nghiên cứu nông nghiệp quốc tế cho phát triển - các nhà tài trợ, các nhà nghiên cứu và các đối tượng và tái tập trung các nỗ lực của các trung tâm về những thách thức phát triển toàn cầu lớn. Mục tiêu chính là để tích hợp công việc của các Trung tâm và các đối tác của họ, tránh manh mún và chồng chéo. Hai năm tham vấn với các bên liên quan và thảo luận rộng rãi trong CGIAR và các Trung tâm được hỗ trợ đã dẫn đến sự phát triển của một mô hình hoạt động mới cho CGIAR. Trong đó mục tiêu cải cách và hoạt động có hiệu quả là quan trọng. Quỹ CGIAR (khoảng 5 triệu USD) nhằm mục đích hài hòa các nỗ lực của các nhà tài trợ đóng góp cho nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển, tăng ngân sách sẵn có bằng cách giảm hoặc loại bỏ trùng lặp trong những Trung tâm và thúc đẩy sự ổn định tài chính. Một Hội nghị toàn cầu hai năm nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển (GCARD) cung cấp một diễn đàn cho sự tham gia chặt chẽ hơn của các nước đang phát triển và các đối tác trong việc phát triển và hướng dẫn nghiên cứu và chương trình nghị sự phát triển của Hiệp hội CGIAR và Quỹ CGIAR. Hiệp hội CGIAR mới (CGIAR Consortium) được tổ chức tại Montpellier, Pháp, tháng 3 năm 2010. Quỹ CGIAR mới được thành lập vào tháng 1 năm 2010 và có trụ sở tại Washington, DC. 2-5-Tóm tắt lịch sử CGIAR -Năm 1971: Đơn ngành (4 Trung tâm CGIAR, 18 thành viên). -Năm 1980: Đa ngành (13 Trung tâm CGIAR, 35 thành viên, trong đó có 4 từ các nước đang phát triển). -Năm 2000: Suy nghĩ lại (16 Trung tâm CGIAR, 58 thành viên, bao gồm 25 từ các nước phát triển ). -Năm 2009: Cải cách (15 Trung tâm CGIAR, 64 thành viên, bao gồm 25 từ các nước phát triển). -Hiện nay: Quốc tế hóa và chuyển đổi (CGIAR Consortium, Quỹ CGIAR).
1971: 18 thành viên Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Ngân hàng Phát triển châu Á, Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Các Quỹ (Ford, WK Kellogg Foundation, Quỹ Rockefeller). Thêm: Úc, Nhật Bản. (1972). Thêm: Chương trình Môi trường Liên Hiệp quốc (1974). Thêm: Ý, Nigeria, Ả Rập Saudi (1975). Thêm: New Zealand (1976) Thêm: Quỹ Ả Rập cho phát triển kinh tế và xã hội, Ủy ban của Cộng đồng Châu Âu.(1977). Thêm: Ngân hàng Phát triển châu Phi (1978). Thêm: Ai-len, Quỹ Quốc tế về phát triển nông nghiệp.(1979). Thêm: Mexico, Philippines, Quỹ OPEC về phát triển quốc tế (1980). Thêm: Ấn Độ, Tây Ban Nha (1981). Thêm: Brazil, Trung Quốc, Phần Lan.(1984). Thêm: Áo (1985). Thêm: Luxembourg, Hàn Quốc.(1991). Thêm: Indonesia (1993). Thêm: Liên bang Nga, Colombia.(1994). Thêm: Bangladesh, Ai Cập, Iran, Kenya, Romania, Syria.(1995) Thêm: Côte d'Ivoire. (1996). Thêm: Pakistan, Cộng hòa Nam Phi, Bồ Đào Nha, Peru, Thái Lan.(1997). Thêm: Uganda.(1998). Thêm: Israel, Malaysia, Ma-rốc, Syngenta Foundation. (2002). Thêm: Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (2003) Thêm: Thổ Nhĩ Kỳ (2005). Đến năm 2009: CGIAR có 15 Trung tâm, 64 thành viên, bao gồm 25 nước đang phát triển.
5-Các chương trình nghiên cứu của CGIAR
Chương trình nghiên cứu của CGIAR (CRPs) là đa trung tâm, các sáng kiến đa đối tác được xây dựng trên 3 nguyên tắc: tác động trên bốn mục tiêu hệ thống cấp của CGIAR, làm cho hầu hết những điểm mạnh của Trung tâm; và quan hệ đối tác mạnh mẽ và hiệu quả. Các chương trình nghiên cứu sau đây hiện nay đã được phê duyệt (các Trung tâm chính ở trong ngoặc): -CCAFS- Climate Change, Agriculture and Food Security(CIAT). (Biến đổi khí hậu, Nông nghiệp và An ninh lương thực). -Forests, Trees and Agroforestry (CIFOR). (Rừng, Cây và Nông Lâm kết hợp) -GRiSP - A Global Rice Science Partnership (IRRI). (Khoa học lúa gạo đối tác toàn cầu). -Aquatic Agricultural Systems-Harnessing the Development Potential of Aquatic Agricultural Systems for the Poor and Vulnerable (WorldFish). (Hệ thống Nông nghiệp-thủy sản-Khai thác tiềm năng phát triển của hệ thống nông nghiệp thủy sản cho người nghèo và dễ bị tổn thương). -MAIZE - Global Alliance for Improving Food Security and the Livelihoods of the Resource-poor in the Developing World (CIMMYT). (Ngô - Liên minh toàn cầu để cải thiện an ninh lương thực và sinh kế của các nước nghèo tài nguyên trong thế giới đang phát triển). -RTB - Roots, Tubers and Bananas (CIP). ( Cây lấy cũ, rễ và Chuối) -WHEAT - Global Alliance for Improving Food Security and the Livelihoods of the Resource-poor in the Developing World (CIMMYT) (Lúa mì - Liên minh toàn cầu để cải thiện an ninh lương thực và sinh kế của các nước nghèo tài nguyên trong thế giới đang phát triển) -More Meat, Milk and Fish by and for the Poor (ILRI). (Thêm thịt, sữa và cá cho người nghèo) -WLE- Water, Land and Ecosystemshttp://wle.cgiar.org/. (Nước, Đất và hệ sinh thái) -ANH- Agriculture for Nutrition and Health, led by IFPRI. (Nông nghiệp dinh dưỡng và sức khỏe). -Dryland Cereals led by ICARDA. (Ngũ cốc cho Vùng đất khô hạn) -Dryland Systems- Integrated agriculture systems for the poor and vulnerable in dry areas, led by ICARDA. ( Hệ thống nông nghiệp cho Vùng đất khô hạn -Hệ thống tích hợp cho những người nghèo và dễ bị tổn thương trong khu vực khô hạn). -Humidtropics- Integrated systems for the humid tropics, led by IITA (Hệ thống-Humidtropics-tích hợp cho các vùng nhiệt đới ẩm). -PIM- Policies, Institutions, & Markets, led by IFPRI. (Chính sách, tổ chức, và thị trường) -Grain Legumes for Health & Prosperity, led by IFPRI. (Các cây họ đậu, ngũ cốc cho Sức khỏe và thịnh vượng)
6-Tác động của CGIAR với Nông nghiệp thế giới
Tác động của nghiên cứu CGIAR đã được đánh giá cao, như thể hiện bởi một bài báo xuất bản trên tạp chí đánh giá, chính sách lương thực, trong năm 2010. Nhiều tác động của các Trung tâm của CGIAR đã đến từ cải tiến di truyền cây trồng. Lúa mì và lúa năng suất cao là nền tảng của cuộc cách mạng xanh khởi đầu của một chặng đường dài thành công. Đánh giá về tác động của các nỗ lực nhân giống cây trồng tại các trung tâm CGIAR từ năm 1965 đến năm 1998 cho thấy 65% diện tích trồng với 10 loài cây trồng được CGIAR cải thiện là: lúa mì, lúa gạo, ngô, cao lương, kê, lúa mạch, đậu lăng, đậu, sắn, khoai tây, được trồng bằng giống cải tiến. Có khoảng 60% cây trồng có nguồn giống được tạo ra do CGIAR (và hơn 90% đối với đậu lăng, đậu nành và sắn). Giá trị đầu tư bằng tiền của của CGIAR trong cải tiến cây trồng là rất lớn, đến hàng tỷ đô la. Các trung tâm của CGIAR cũng đã góp phần vào các lĩnh vực như nâng cao giá trị dinh dưỡng của cây lương thực, kiểm soát sâu hại và dịch bệnh thông qua các giống kháng, quản lý dịch hại tổng hợp và kiểm soát sinh học (ví dụ như kiểm soát bọ trong bột sắn ở vùng cận Sahara châu Phi thông qua phát hành loài ong bắp cày ăn thịt); cải tiến trong hệ thống chăn nuôi và thủy sản; đặc tính di truyền và bảo tồn tài nguyên, quản lý tài nguyên thiên nhiên được cải thiện, và đóng góp vào việc cải thiện chính sách trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả lâm nghiệp, phân bón, tiếp thị sữa và di truyền bảo tồn và sử dụng tài nguyên. Sự ra đời của hệ thống canh tác không có đất trong các hệ thống lúa-lúa mì ở vùng đồng bằng Ấn-Hằng, ví dụ, tạo ra lợi ích kinh tế khoảng 165 triệu USD từ năm 1990 đến năm 2010 vốn đầu tư chỉ có 3,5 triệu USD. Những ước tính lợi ích của nghiên cứu CGIAR cho thấy chỉ 1 USD đầu tư nghiên cứu đã thu về được 2 USD trong áp dụng. 6-1-Tạo sự khác biệt CGIAR có một danh tiếng vững chắc cho hành động vì lợi ích của người nghèo trên thế giới. Hồ sơ theo dõi của nó kéo dài bốn thập kỷ nghiên cứu, nghiên cứu đã tạo được sự khác biệt. CGIAR nghiên cứu chiếm 673.000.000 USD, chỉ hơn 10 phần trăm của 5,1 tỷ USD chi cho nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển trong năm 2010. Lợi ích kinh tế tăng đến hàng tỷ đô la. Ở châu Á, lợi ích tổng thể của nghiên cứu CGIAR ước tính 10,8 tỷ USD một năm đối với lúa gạo, 2,5 tỷ USD với lúa mì và riêng Hoa Kỳ lợi ích khoảng 800 triệu USD cho ngô. Nó thường được trích dẫn rằng 1 đô la đầu tư vào nghiên cứu của CGIAR tạo ra khoảng 9 đô la trong tăng năng suất ở các nước đang phát triển. CGIAR có cách tiếp cận mới, tập hợp sức mạnh của nó trên toàn thế giới và có tư duy mới về nghiên cứu nông nghiệp cho phát triển, bao gồm cả cách thức sáng tạo để theo đuổi công việc khoa học và các nguồn tài trợ nó đòi hỏi. CGIAR và các nhà tài trợ cùng nhau cho kết quả tốt hơn và cho phép các nhà khoa học tập trung hơn vào các nghiên cứu thông qua đó họ phát triển và cung cấp những ý tưởng lớn cho tác động lớn. Kết quả là, CGIAR là hiệu quả hơn, và vị trí tốt hơn hơn bao giờ hết để đáp ứng các thách thức phát triển của thế kỷ 21. 6-2-Cải cách trong thế kỷ 21 Thay đổi chính trị, tài chính, công nghệ và môi trường trên toàn thế giới có nghĩa là có nhiều cơ hội để trẻ hóa hệ thống lương thực toàn cầu. Phát triển trong khoa học nông nghiệp và môi trường, tiến bộ trong các chính sách của chính phủ, và những tiến bộ trong sự hiểu biết của động lực giới tính và dinh dưỡng mở ra một hướng mới cho sản xuất thực phẩm hơn và để chống đói nghèo cố hữu trong lịch sử. Những cải cách sâu rộng của CGIAR trong năm 2010 là tiền đề để tận dụng những cơ hội này. Nó giải quyết những thách thức phức tạp hơn bao giờ hết trong phát triển nông nghiệp. Nó được tin rằng khoa học có thể tạo ra những khác biệt lớn. Để hoàn thành mục tiêu của mình, CGIAR cần đảm bảo 1 tỷ USD trong các khoản đầu tư hàng năm để tài trợ cho các chương trình nghiên cứu hiện hành.